Một trong những thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Học thuyết đã vạch ra cơ sở khoa học giải thích sự phát triển lịch sử là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, tuân theo những quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trong các quy luật đó, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, tác động vào nền tảng vật chất của đời sống xã hội, đó là nền sản xuất vật chất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội phát triển dựa trên một phương thức sản xuất nhất định, là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực thúc đẩy sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Phương thức sản xuất mới ra đời tạo tiền đề vật chất tối cần thiết cho sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ cao hơn. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có những đặc điểm riêng đòi hỏi sự nhận thức khách quan, khoa học để có thể đề ra đường lối, chính sách nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp, nhằm xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Đây là một vấn đề lý luận phức tạp đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhiều vấn đề chưa được làm rõ. Thực tiễn phát triển đất nước những năm qua cùng với yêu cầu cấp bách nghiên cứu những vấn đề lý luận phục vụ cho việc sửa đổi Hiến pháp 1992 đã đòi hỏi nghiên cứu về quan hệ sản xuất XHCN và quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Trong phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và con người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất; quan hệ giữa người với người trong tổ chức, quản lý sản xuất; và quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm. Trong ba mặt cấu thành quan hệ sản xuất, mặt sở hữu có vị trí quan trọng nhất, quyết định các mặt còn lại. Tuy nhiên, các mặt còn lại cũng có vai trò quan trọng trong quan hệ sản xuất, tác động đến sự kết hợp giữa các yếu tố sản xuất cũng như động lực của người lao động. Vì thế không thể xem nhẹ bất kỳ mặt nào trong quan hệ sản xuất. Sự phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (PTSX TBCN) là phương thức sản xuất đã và đang tồn tại một cách hoàn chỉnh trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Còn phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa (PTSX XHCN), cộng sản chủ nghĩa thì đang trong thời kỳ đầu hình thành, đang trong thời kỳ quá độ của sự phát triển. PTSX XHCN hoàn thiện sẽ thay thế PTSX TBCN trong tương lai. Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH bộc lộ qua những nội dung chủ yếu sau: 1. Lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ tự động hóa, tin học hóa, tính chất xã hội hóa rất cao. Khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp chủ yếu. Điều này khiến quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu TBCN trở nên lạc hậu hơn so với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Nó cản trở việc thực hiện một sự phân phối bình đẳng hơn những của cải khổng lồ do lực lượng sản xuất mới này tạo ra. Nó cản trở việc xã hội hóa sản xuất ở mức cao do phần lớn vốn, tư liệu sản xuất và sản phẩm tạo ra vẫn nằm trong tay một thiểu số cá nhân, khiến sản xuất và phân phối bị giới hạn trong mục tiêu lợi nhuận của một thiểu số. Điều đó dẫn đến khủng hoảng chu kỳ trong CNTB, cụ thể như khủng hoảng 1929 - 1933, dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ 2 hay khủng hoảng tài chính thế giới từ năm 2008 đến nay bắt nguồn từ Mỹ. Quan hệ trao đổi hàng hóa bị giới hạn bởi quan hệ phân phối không bình đẳng giữa một bộ phận các nhà tư bản và đa số người lao động, khiến của cải dù sản xuất ra nhiều hơn nhưng không thể được tiêu thụ do người dân không có tiền để mua chúng. Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề sức mua của kinh tế học, nhìn sâu xa, đây là vấn đề quan hệ sản xuất. Vậy tương ứng với trình độ cao của lực lượng sản xuất, cần có quan hệ sản xuất phù hợp như thế nào? 2. Mác và Ăngghen đã nhận thấy dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, nền đại công nghiệp ra đời tạo ra một giai cấp người lao động có trình độ ngày càng cao và số lượng ngày càng đông, và họ nhận thức được vai trò của mình trong nền sản xuất, với tư cách là người tham gia sản xuất và tạo ra phần lớn, nếu không nói tất cả, của cải vật chất của xã hội. Nhưng dưới chế độ TBCN (quan hệ sản xuất TBCN thống trị) họ là người bị bóc lột, họ không có quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, họ chỉ được phân phối một phần nhỏ lượng của cải do họ tạo ra. Trong khi đó, phần lớn của cải thuộc về giai cấp tư sản thiểu số. Trong chừng mực họ không có quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, việc tổ chức quản lý và phân phối vẫn do giai cấp có quyền này, giai cấp tư sản, quyết định. Sẽ không bao giờ có bình đẳng, công bằng trong phân phối nếu quan hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ tư hữu còn thống trị. Vì vậy, vấn đề thay thế quan hệ sản xuất TBCN, mà trước hết là quan hệ sở hữu TBCN, bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn, bình đẳng hơn là cần thiết để hướng tới một xã hội phát triển bền vững và nhân văn. 3. Quan hệ sản xuất mới này, do người lao động (giai cấp công nhân làm đại diện) làm chủ, được gọi là quan hệ sản xuất XHCN, có đặc trưng như thế nào? Trước hết, về mặt sở hữu, nó không thể dựa trên chế độ tư hữu (về tư liệu sản xuất chủ yếu). Chế độ tư hữu ở đây cần phân biệt với sở hữu cá nhân. Chế độ tư hữu là một đặc trưng xã hội của sản xuất dưới CNTB. Đó là một hệ thống kinh tế - xã hội trong đó một thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, nhờ đó nắm giữ phần lớn của cải do tư liệu sản xuất chủ yếu đó tạo ra; còn đa số người lao động do không có quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu này nên chỉ được phân phối một phần nhỏ của cải từ đó. Như vậy, chế độ tư hữu có thể hiểu là chế độ mà một thiểu số được quyền tư hữu vô hạn, tuyệt đối còn đa số người khác thì bị tước quyền này (dù họ vẫn có quyền theo luật pháp nhưng không thể thực hiện được quyền đó - không có tư liệu sản xuất mà sở hữu). Như vậy chế độ tư hữu không phải là chế độ thừa nhận sở hữu của mỗi cá nhân là thiêng liêng, mà đó là chế độ thừa nhận sở hữu của một số cá nhân là thiêng liêng và đa số khác không có quyền đó. Trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, ở một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một tiêu chuẩn tiến bộ xã hội chưa vươn tới được toàn bộ dân cư của xã hội đó, thì chế độ tư hữu là phù hợp. Chế độ tư hữu này cũng tạo động lực mạnh mẽ cho tư nhân phát triển. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ ở phạm vi toàn xã hội, khi đó quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu không còn phù hợp. Sự không phù hợp này đã được chúng tôi chỉ ra ở trên. Vậy, thay thế cho chế độ tư hữu có thể là chế độ nào? Chế độ mới này phải khôi phục lại sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu cho đa số nhân dân trong xã hội, trước hết là đa số người lao động mà chế độ tư hữu trước đó không thể làm được, và cũng không muốn làm. Khi đa số nhân dân lao động, mà xa hơn là toàn xã hội, có quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, khi đó chế độ tư hữu bị xóa bỏ, chế độ công hữu được thiết lập. Như vậy, chế độ công hữu không phải là xóa bỏ sở hữu cá nhân mà là khôi phục sở hữu cá nhân cho đa số người lao động(1). Nó chỉ xóa bỏ đặc quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của một thiểu số để khôi phục quyền sở hữu này cho đa số, rộng hơn là cho toàn thể xã hội. Một chế độ như vậy liệu có thể thực hiện được? Nói theo ngôn ngữ của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đó là tạo ra một thể liên hợp, trong đó tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do của tất cả mọi người. Để thực hiện được chế độ này, có mấy điểm phải làm rõ: Thứ nhất, những tư liệu sản xuất nào tạo thành tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội? Thứ hai, có thể thực hiện sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất chủ yếu không? Thực hiện như thế nào? Những tư liệu sản xuất chủ yếu đó là: vốn, ngân sách nhà nước (toàn dân) (xem xét dưới góc độ nguồn tài sản công cộng đầu tư vào sản xuất), tài sản nhà nước, đất đai, vùng biển, tài nguyên, nguồn năng lượng, các doanh nghiệp nhà nước,... Tất nhiên, trong các yếu tố trên, có những yếu tố có thể vừa được sở hữu bởi cộng đồng, vừa được sở hữu bởi tư nhân, nhưng nếu một thiểu số tư nhân sở hữu phần lớn những yếu tố trên thì đó là chế độ tư hữu. Vậy, cơ chế nào để cộng đồng thực hiện được quyền sở hữu những yếu tố trên? Thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam cho ta thấy: - Những yếu tố tự nhiên như đất đai, tài nguyên, năng lượng có thể được tuyên bố là thuộc sở hữu toàn dân (khi nhân dân làm chủ thực sự xã hội và nhà nước của nhân dân khẳng định và bảo vệ quyền này). Khi đó, nhà nước đại diện toàn thể nhân dân thực hiện việc đảm bảo quyền sở hữu của toàn dân đối với chúng. Sau đó, sẽ thực hiện phân phối lại những tư liệu sản xuất này cho mọi người dân dưới dạng quyền sử dụng lâu dài hoặc có thời hạn, đảm bảo mọi người dân có khả năng đều được tiếp cận và sử dụng bình đẳng những tư liệu sản xuất này. Chúng ta đã làm điều này rất tốt khi phân chia ruộng đất cho nông dân và làm cho người dân có tư liệu sản xuất, thay vì phải làm việc trên ruộng đất của địa chủ. Đây thực sự là một bước tiến lớn trong bình đẳng xã hội. - Cách mạng XHCN đã tạo ra một hệ thống sản xuất do người lao động làm chủ. Trong đó, các xí nghiệp quốc doanh (hay doanh nghiệp nhà nước, mà thực chất là doanh nghiệp toàn dân) được thiết lập dựa trên sự đầu tư của toàn dân (thông qua ngân sách) và hoạt động trên nguyên tắc lợi nhuận thu được nộp về ngân sách và đem phân phối lại cho toàn dân thông qua việc sử dụng ngân sách một cách hợp lý vì lợi ích của toàn thể nhân dân. Hệ thống doanh nghiệp này nếu được xây dựng một cách hiệu quả sẽ cung cấp một lượng của cải khổng lồ cho mọi người một cách bình đẳng. Khoảng 80% điện của chúng ta dùng đang do những doanh nghiệp quốc doanh tạo ra. Xăng dầu chúng ta tạo ra từ nhà máy Dung Quất dự kiến có thể đáp ứng khoảng 30% nhu cầu trong nước. Như vậy, những tư liệu sản xuất lớn này đã tạo ra lượng của cải vô cùng to lớn và cung cấp cho toàn thể nhân dân. Nếu chúng ta kết hợp tốt hiệu quả sản xuất với tạo ra chế độ đãi ngộ thỏa đáng với người đại diện nhân dân quản lý và người công nhân trực tiếp làm việc tại những doanh nghiệp này, chắc chắn đây là một mô hình doanh nghiệp tiến bộ, nhân văn. - Một bộ phận khác của quan hệ sản xuất XHCN đó là sở hữu tập thể. Đó là những tập thể người lao động, nhà kinh doanh kết hợp với nhau, liên kết với nhau thành các công ty cổ phần, các hợp tác xã trong đó người lao động có tham gia vào quyền sở hữu công ty, hợp tác xã và được phân chia lợi ích từ sự tham gia đó. Sự hình thành những thực thể kinh tế này xuất phát từ nhu cầu phối hợp trong sản xuất của nền sản xuất ở trình độ cao và tính chất xã hội hóa cao. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mô hình kinh tế này sẽ ngày càng phổ biến trong xã hội. - Thực tế cho thấy khu vực nhà nước (và có thể là cả tập thể) mới thu hút 1/3 nhân lực và tạo ra hơn 1/3 năng lực sản xuất của cả nước(2). Vậy còn 2/3 dân số và gần 2/3 năng lực sản xuất còn lại thuộc các thành phần kinh tế tư nhân, hỗn hợp có vị trí như thế nào trong nền sản xuất theo định hướng XHCN? Điều đó có phải là chế độ tư hữu đã được thiết lập? Hoàn toàn không. Điều này được chứng minh ở chỗ 2/3 dân số tham gia tạo ra 2/3 năng lực sản xuất không tạo nên giai cấp tư sản chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, do không một nhóm tư nhân thiểu số nào có thể nắm được quá 50% tổng tài sản xã hội/ tổng tư liệu sản xuất trong xã hội. Bởi hơn 40% của cải xã hội thuộc về sở hữu công cộng và tập thể. 1/3 dân số làm việc trong khu vực này là những người tạo ra 1/3 năng lực sản xuất cho cả nước. Họ được phân phối một phần phù hợp, còn lại thuộc về toàn thể xã hội (qua ngân sách) chứ họ không chiếm hữu hết 1/3 năng lực sản xuất này. Tài sản công cộng được giao cho ít nhất 1/3 của toàn bộ dân số sử dụng chung. 2/3 dân số còn lại vẫn có thể hưởng lợi từ những sản phẩm đó. Họ sử dụng những tư liệu sản xuất của riêng mình và thu lợi từ chúng, hoặc họ thuê lại tư liệu sản xuất của toàn dân (ví dụ đất đai) để kinh doanh và đóng thuế cho ngân sách. Chúng tôi coi cơ chế này là cơ chế hữu hiệu để phủ định chế độ tư hữu, thiết lập được một chế độ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối bình đẳng hơn. Do chỗ nó không cho phép thiết lập chế độ tư hữu TBCN, nguồn gốc của bất bình đẳng và bóc lột dưới CNTB. Chế độ kinh tế này, quan hệ sản xuất này chưa thể coi là chế độ công hữu toàn diện nhưng là một chế độ có khả năng khôi phục sở hữu cho đa số người lao động trong xã hội. Như vậy, nếu chúng ta giữ được khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chiếm hơn 40% tổng tài sản xã hội và những tư liệu sản xuất như đất đai, tài nguyên, tư liệu sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước và một phần lớn các cơ sở năng lượng thuộc sở hữu toàn dân như hiện nay, chúng ta đang giữ được định hướng XHCN. Với ý nghĩa đó, chúng tôi đề nghị giữ nguyên khẳng định trong Hiến pháp: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (có thể gọi bằng tên khác là kinh tế nhân dân/ hay kinh tế toàn dân), kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, nhằm đảm bảo điều kiện này. Khi chúng ta xóa bỏ đặc trưng tư nhân duy nhất của sở hữu xã hội trong chế độ tư hữu, thiết lập chế độ mới bao hàm cả đặc trưng tư nhân và đặc trưng công cộng của sở hữu xã hội, trong đó khu vực công cộng đạt tỷ lệ nhất định và được bảo vệ, duy trì, phát triển hiệu quả, chúng ta sẽ xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ mới khôi phục sở hữu cho đa số người lao động cũng như tạo ra một chế độ phân phối bình đẳng hơn. Đây thực sự là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại sự thống trị của thiểu số giai cấp tư sản với chế độ tư hữu TBCN. Khi toàn thể xã hội cùng sở hữu hơn 1/3 (lý tưởng hơn là 1/2) tổng tài sản và hưởng lợi từ đó (trong số này những tư liệu sản xuất như đất đai, tài nguyên, tư liệu sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước và một phần lớn các cơ sở năng lượng thuộc sở hữu toàn dân), số còn lại phân chia theo nguyên tắc ai tạo ra người đó hưởng thì cơ bản sẽ xóa bỏ được chế độ tư hữu và khôi phục sở hữu cho toàn thể mọi người trong xã hội. Có thể nói, đây là quan hệ sản xuất phù hợp nhất với trình độ hiện nay của lực lượng sản xuất, với trình độ giác ngộ của người lao động và với trình độ nhận thức, trình độ tiến bộ của đạo đức xã hội ở nước ta, khi mọi người đều không thể chấp nhận một chế độ tư hữu phân biệt giàu nghèo và mang bản chất bóc lột. Đây là bước quá độ về kinh tế để đi tới xã hội thực sự tốt đẹp cho tất cả mọi người. Nhưng muốn thực hiện được điều này, chính trị có vai trò vô cùng quan trọng, khi nó sẽ bảo vệ cho cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Nền chính trị mới này phải là nền chính trị dân chủ thực sự, do nhân dân làm chủ thông qua Đảng Cộng sản (đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động) và thực hiện lý tưởng xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN, xây dựng quyền sở hữu cho toàn thể nhân dânr (1) Đây là tư tưởng của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của đảng cộng sản. (2) Số liệu này có tính ước lượng gần sát và dựa trên cơ sở các số liệu từ cuốn Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020 do PSG,TS. Lê Quốc Lý (chủ biên), Nxb CTQG, 2013, tr.126.