Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là bộ phận quan trọng trong học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, là lý tưởng, mục tiêu của cách mạng vô sản. Lý luận khoa học và lý tưởng cao cả đó được hiện thực hóa từ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là kết quả của sự chuẩn bị các điều kiện cần thiết, sự phát triển của phong trào cách mạng, sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được hội nghị thành lập Đảng (2-1930) thông qua đã nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “để đi tới xã hội cộng sản”(1). Luận cương chính trị tháng 10-1930 nhấn mạnh con đường phát triển của cách mạng Việt Nam “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”(2). Sự lựa chọn con đường XHCN đã rõ ràng và dứt khoát ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Việt Nam đã trải qua chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm và từ cuối thế kỷ XIX là thuộc địa của đế quốc Pháp. Khát vọng độc lập, tự do và dân chủ là lớn lao và bức thiết. Mục tiêu cách mạng mà Đảng đề ra trước hết là giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nông dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã xóa bỏ chế độ thuộc địa, chấm dứt chế độ phong kiến, mở ra thời đại mới của dân tộc Việt Nam, thời đại dân tộc độc lập, nhân dân được làm chủ xã hội và cuộc sống, xây dựng xã hội tốt đẹp vì ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC. Sau Cách mạng Tháng Tám, thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, nhiệm vụ giải phóng dân tộc vẫn là vấn đề sống còn và vì vậy mục tiêu tiến lên CNXH vẫn chưa thể đặt ra trực tiếp, mà phải vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong nhiệm vụ kiến quốc, Đảng và Chính phủ chú trọng phát triển chế độ dân chủ nhân dân tạo những tiền đề, mầm mống tiến tới CNXH khi kháng chiến thắng lợi. Năm 1946, trong chuyến thăm chính thức nước Pháp, khi trả lời các nhà báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ quan điểm: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác... Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ”(3). Những điều kiện cần thiết chưa có đủ đòi hỏi trên con đường phát triển theo định hướng XHCN, Đảng và chính quyền cách mạng phải cùng với toàn dân chủ động tạo dựng những điều kiện: phát triển kỹ nghệ tức lực lượng sản xuất hiện đại để phát triển công nghiệp, nông nghiệp ở trình độ cao, đặc biệt là nhân tố con người, phải nâng cao dân trí, xây dựng con người phát triển toàn diện có trí tuệ và năng lực tự giác xây dựng một xã hội mới. Quan điểm của Hồ Chí Minh thật sự là sự khởi đầu nhận thức về xây dựng CNXH xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Luận cương cách mạng Việt Nam được Đại hội II của Đảng (2-1951) thông qua đã xác định phương hướng rõ ràng là: hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH. Luận cương nêu rõ: “nhiệm vụ trung tâm của Đảng là đẩy mạnh việc kỹ nghệ hóa, phát triển kỹ nghệ nặng, phát triển thật rộng bộ phận kinh tế Nhà nước, tập thể hóa nông nghiệp dần dần, thực hiện những kế hoạch dài hạn để gây thêm và củng cố cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, đặng tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước cụ thể của giai đoạn này phải tùy theo điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định. Song một điều chắc chắn là chừng nào ta chưa chuẩn bị cơ sở kinh tế đầy đủ và chưa làm cho số đông quần chúng nhân dân nhận rõ chủ nghĩa xã hội là cần thiết, thì chủ nghĩa đó chưa thể thực hiện được. Ở nước ta, thời gian chuẩn bị đó, so với các nước dân chủ nhân dân khác, nhất định sẽ lâu hơn, vì ta phải kiến quốc trên cơ sở một nước nông nghiệp lâu năm bị đế quốc thống trị, tàn phá”(4). Những điều kiện để tiến lên CNXH mà Hồ Chí Minh và Đại hội II của Đảng nêu ra phản ánh sự nhận thức đúng đắn về CNXH từ thực tiễn Việt Nam có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn. Sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng khẳng định dù hoàn cảnh như thế nào, miền Bắc cũng phải tiến lên CNXH. Đó là yêu cầu khách quan bảo đảm sự phát triển của miền Bắc, đồng thời còn là yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Miền Bắc trải qua 3 năm (1954-1957) khôi phục kinh tế và hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (cải cách ruộng đất) và cũng là chuẩn bị những điều kiện cần thiết và phát triển nhận thức để chính thức thực hiện cách mạng XHCN theo Nghị quyết Trung ương 14 (1958) và Nghị quyết Đại hội III (9-1960). Năm 1956, 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ những quan điểm về CNXH và phương châm, phương pháp đi tới CNXH có ý nghĩa định hướng trong nhận thức của toàn Đảng. Người quan niệm: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”(5). Đó là tư tưởng rất mới mẻ và sáng tạo về CNXH. Về cách thức tiến hành phải tiến dần từng bước lên CNXH, cải tạo giai cấp tư sản cũng cần có cách thức khác, “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”(6). Phải luôn chú ý đặc điểm, hoàn cảnh riêng của Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng giai cấp tư sản Việt Nam “họ có xu hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước”, “nếu mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội”(7). Trong diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc (7-9-1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc vận dụng lý luận vào thực tiễn Việt Nam trong cách mạng XHCN. Phải nắm vững điều kiện đặc biệt của nước ta “là một xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu”. “Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”(8). Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng XHCN và công cuộc đổi mới. Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954-1975) và trên cả nước sau năm 1975 đã bước đầu tạo dựng một xã hội mới với bản chất tốt đẹp và sức mạnh về mọi mặt bảo đảm giành thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó là điều không thể phủ nhận. Tuy vậy, trong cách mạng XHCN cũng đã phạm phải sai lầm, khuyết điểm trong chính sách kinh tế, xã hội dẫn tới khủng hoảng từ năm 1979. Đảng đã kịp thời tự phê bình và chỉ ra những nguyên nhân cần phải khắc phục, đó là bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, chưa nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm thực tiễn đất nước, chưa nhận thức rõ quy luật khách quan. Đảng đã từng bước đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, từng bước sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp, phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế, của cơ chế thị trường, chú trọng lợi ích của người lao động, sửa đổi cách thức quản lý nặng về tập trung, hành chính, bao cấp cản trở những động lực của sự phát triển. Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (8-1979) là bước đột phá đầu tiên, tiếp theo là Chỉ thị 100 (13-1-1981) về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Quyết định 25CP, 26CP (21-1-1981), Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6-1985) và Kết luận của Bộ Chính trị tháng 8-1986 là quá trình khảo nghiệm thực tiễn để đi đến đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12-1986). Đại hội VI của Đảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện dựa trên phân tích thấu đáo điều kiện, hoàn cảnh đất nước và nhận thức rõ hơn những vấn đề của thời kỳ quá độ lên CNXH, những luận điểm của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Đại hội VI đã tổng kết những bài học lớn có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn, trong đó nhấn mạnh bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(9). Thực tế điều kiện, hoàn cảnh đất nước là gì? Là điểm xuất phát còn ở trình độ rất thấp, vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán. Là hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh giải phóng và lại phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và giúp bạn hồi sinh đất nước. Các thế lực đế quốc, phản động siết chặt cấm vận và phá hoại chế độ XHCN ở Việt Nam. Đất nước khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lạm phát năm 1986 ở mức cao nhất (774,7%), là một trong những nước nghèo nhất thế giới, năm 1986 bình quân thu nhập đầu người có 150 USD. Trong hoàn cảnh như thế, đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống, là vấn đề sống còn. Để hành động theo quy luật khách quan, trước hết phải nhận thức đúng đắn các quy luật, nhất là quy luật giá trị và sản xuất hàng hóa thúc đẩy sản xuất ra nhiều của cải vật chất. Sự kết hợp kế hoạch hóa nền kinh tế với yếu tố thị trường với phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Quy luật phân phối theo lao động và coi lợi ích kinh tế của người lao động là một động lực phát triển. Đặc biệt phải nhận thức và hành động theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để có bước đi và hình thức thích hợp. Đại hội VI của Đảng thẳng thắn nêu rõ: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(10). Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII đề ra (6-1991) và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011 là quá trình không ngừng phát triển nhận thức về CNXH và con đường XHCN dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của Việt Nam. Sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do những hạn chế, yếu kém kéo dài không được khắc phục, do sai lầm trong nhận thức và lãnh đạo, quản lý không được sửa chữa và nhất là do sự tấn công trực diện của các thế lực thù địch và phản bội. Cũng chính từ thất bại và tổn thất to lớn đó là bài học để các Đảng Cộng sản, các nước kiên định con đường XHCN, trong đó có Việt Nam phải không ngừng đổi mới tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn để tìm ra quy luật phát triển riêng. Kiên định, trung thành với lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng phải không ngừng đổi mới và phát triển sáng tạo mới thành công. Bài học lịch sử là: nếu không trung thành, kiên định lý luận, tư tưởng cộng sản sẽ phạm vào chủ nghĩa xét lại, nhưng nếu không đổi mới, phát triển sáng tạo sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, trì trệ và đất nước không thể phát triển. Gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và Cương lĩnh của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, không ngừng cải thiện đời sống, mức sống và chất lượng cuộc sống của nhân dân. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay”(11). Cần phải nhấn mạnh một thành tựu về phát triển tư duy lý luận. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Trước hết, sáng tỏ về mô hình, mục tiêu của CNXH Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng hàng đầu là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các đặc trưng về vai trò làm chủ của nhân dân, về nền kinh tế phát triển cao, về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, về xã hội và con người, về đoàn kết các dân tộc, về nhà nước pháp quyền và về hợp tác, hữu nghị trong quan hệ quốc tế, đã làm rõ bản chất tốt đẹp và tính hiện thực của CNXH ở Việt Nam. Sáng tỏ hơn về những nội dung phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu theo định hướng XHCN. Xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH cũng làm rõ hơn khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên CNXH. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(12). Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nâng cao năng lực dự báo, xử lý có hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển. “Đó là quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”(13). Tiến tới Đại hội XIII của Đảng, tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), nhiều vấn đề được tổng kết để nhận thức rõ hơn và giải quyết những yêu cầu bức thiết do thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất; vấn đề an sinh xã hội, phân hóa giàu nghèo; vấn đề xây dựng văn hóa, con người trong xã hội văn minh, tiến bộ; vấn đề chống suy thoái, tham nhũng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam XHCN hùng cường, sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp. Đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN. Đó là mục tiêu, định hướng phát triển với tầm nhìn chiến lược kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2045). ___________________________ (1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.2, 94. (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.315. (4) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.89. (5), (6), (7) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.390, 391, 391. (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.92. (9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.363, 390. (11) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.20. (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84. (13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.17-18. PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc (Theo lyluanchinhtri.vn)